Giới thiệu về Microsoft Exchange Server
Lịch sử
Tháng 4/1993, Microsoft đã lên kế hoạch chuyển đổi hệ thống quản lý thư điện tử chạy trên nền XENIX (một phiên bản của HĐH Unix) thành Exchange Server và cho đến tháng 01/1995 đã có khoảng 500 người bắt đầu sử dụng thử bản Exchange Server Beta 1. Vào tháng 04/1996 theo thống kê có khoảng 32,000 người đã chính thức chuyển đổi sang hệ thống e-mail này của Microsoft.
Exchange Server 4.0, được phát hành vào ngày 11/06/1996 được xem là phiên bản đầu tiên được bán ra cho công chúng sử dụng và được xem là phần nâng cấp của Microsoft Mail 3.5. Tại thời điểm đó Exchange Server chỉ có 1 CSDL duy nhất hoạt động theo mô hình client/server theo chuẩn X500 hỗ trợ dịch vụ thư mục (Directory Services). Dịch vụ thư mục được dùng trong Exchange Server sau này được gọi là dịch vụ Microsoft Active Directory, LDAP (Lightweight Directory Access Protocol – là một giao thức dùng để truy vấn và chỉnh sửa dịch vụ thư mục thông qua TCP/IP). Active Directory đã được tích hợp luôn vào Windows Server phiên bản 2000 và là nền tảng của Windows Server domain.
Ngày 23/05/1997, Exchange Server 5.0 chính thức được phát hành, phiên bản này giới thiệu khái niệm Exchange Administrator console và cho phép giao tiếp trực tiếp với các server dùng chuẩn internet mail. Phiên bản 5.0 cũng giới thiệu khái niệm web-based e-mail và sau này được đặt tên là Outlook Web Acess trong các bản services pack tiếp sau đó. Song hành với Exchange Server 5.0, Microsoft cũng cho ra mắt Microsoft Outlook 8.01 và Microsoft Schedule+ 7.5 để hỗ trợ những tính năng mới của Exchange Server.
Exchange Server 5.5, được giới thiệu vào tháng 11/1997, có 2 phiên bản là Standard và Enterprise. Sự khác biệt giữa 2 phiên bản này là kích thước lưu trữ database, mail transport connectors và khả năng clustering. Phiên bản Standard giới hạn database 16 GB, trong khi đó phiên bản Enterprise cho phép CSDL lên đến 16 TB (mặc dù vậy, theo tài liệu của Microsoft thì dung lượng mail không nên quá 100 GB). Phiên bản Standard Edition bao gồm Site Connector, MS Mail Connector, Internet Mail Service (trước đó gọi là "Internet Mail Connector"), và Internet News Service (trước đó gọi là "Internet News Connector"), cũng tương tự như các sản phẩm khác như cc:Mail, Lotus Notes và Novell GroupWise. Phiên bản Enterprise bổ sung thêm X.400 connector, và các phần mềm tương thích với SNADS và PROFS. Phiên bản Enterprise cũng cho phép 2 clustering server. Exchange Server 5.5 cũng giới thiệu một vài tính năng mới như phiên bản Outlook Web Access mới có hỗ trợ Calendar, hỗ trợ IMAP4 và LDAP v3 clients và khả năng phục hồi những mail đã bị xóa. Exchange Server 5.5 là phiên bản Exchange Server cuối cùng có dịch vụ directory, SMTP và NNTP độc lập. Không có phiên bản mới cho Exchange Client và Schedule+ trong Exchange 5.5, chỉ có Outlook 8.03 được phát hành để đáp ứng những tính năng mới của Exchange Server 5.5.
Exchange Server 2000 (v6.0), được ra đời vào ngày 29/11/2000 đã vượt qua nhiều giới hạn của những phiên bản trước đó. Ví dụ, cho phép tăng tối đa kích thước của CSDL và tăng số lượng cluster từ 2 lên 4. Tuy nhiên, nhiều khách hàng đã ngần ngại trong việc nâng cấp lên phiên bản này do nó đòi hỏi hạ tầng mạng phải triển khai Microsoft Active Directory hoàn chỉnh. Không giống như phiên bản Exchange Server 5.5, Exchange Server 2000 không tích hợp sẵn Directory Service và điểm này làm nhiều khách hàng phải duy trì cả 2 hệ thống Exchange hoạt động cùng lúc trong quá trình nâng cấp và thực hiện các dịch vụ mapping tạm thời giữa các thư mục chứa email. Exchange Server 2000 cũng hỗ trợ chức năng nhắn tin tức thời (IM) nhưng sau cùng cũng được tách ra và chuyển sang bộ Microsoft Office Live Communications Server. Tuy nhiên khi phiên bản Exchange Server 2003 ra đời thì việc nâng cấp vô cùng đơn giản; nhiều người dùng Exchange Server 5.5 cũng vì thế mà đã đợi Exchange Server 2003 ra đời rồi mới tiến hành nâng cấp. Qui trình nâng cấp cũng yêu cầu nâng cấp Server của công ty lên Windows 2000. Phiên bản Exchange Server 5.5 và Windows NT 4.0 hiện nay đã chính thức không còn được hỗ trợ bởi Microsoft.
Exchange Server 2003
Exchange Server 2003 (v6.5) được công bố ngày 28/09/2003. Exchange Server 2003 (hiện tại đã có Service Pack 2) có thể chạy trên Windows 2000 Server (bắt buộc phải cài Service Pack 4) và Windows Server 2003 32-bit, mặc dù có một số tính năng bắt buộc phải chạy trên Windows Server 2003, nhưng Exchange Server 2003 có nhiều khả năng tương thích cho phép người dùng từng bước nâng cấp lên hệ thống mới. Điều này rất có ý nghĩa với những công ty lớn có nhiều site phân tán và không thể tiến hành nâng cấp hệ thống đồng thời được.
Một trong những tính năng mới của Exchange Server 2003 là tăng cường khả năng phục hồi khi có thảm họa (disaster recovery) cho phép người quản trị đưa hệ thống hoạt động trở lại nhanh chóng. Đó là khả năng cho phép người dùng vẫn gửi nhận mail bình thường khi những kho dữ liệu e-mail đang được phục hồi.. Một số tính năng trước đây có trong bộ Microsoft Mobile Information Server 2001/2002 nay cũng được tích hợp sẵn vào Exchange Server product, như Outlook Mobile Access chức năng ActiveSync dữ liệu ngay tại Server, trong khi đó sản phẩm Mobile Information Server đã bị ngưng phát triển. Khả năng phòng chống virus và spam tốt hơn, bằng cách tích hợp các hàm APIs để lọc các mã độc và phát hiện các địa chỉ IP gốc, SPF ("Sender ID"), và DNSBL filtering vốn đã là chuẩn của các ứng dụng mã nguồn mở và các mail server chạy trên nền Nix. Exchange 2003 cũng bổ sung thêm các công cụ quản lý e-mail và hộp thư.. Thêm vào đó các tính năng như IM và Exchange Conferencing Server đã được tách ra hoàn toàn để làm thành sản phẩm độc lập. Microsoft hiện nay đã tạo ra sự phối hợp tuyệt vời giữa Microsoft Office, Microsoft Office Live Communications Server, Live Meeting và Sharepoint tạo thành một giải pháp làm việc cộng tác hoàn hảo. Exchange Server hiện nay chỉ còn đóng vai trò là quản lý e-mail và lịch làm việc mà thôi.
Exchange Server 2003 có 2 phiên bản là Standard Edition và Enterprise Edition. Standard Edition chỉ hỗ trợ 1 message database cho mỗi server, và hỗ trợ databases có kích thước lên tới 16 GB. Bắt đầu với Service Pack 2, Standard Edition cho phép kích thước database tối đa lên tới 75 GB, nhưng chỉ hỗ trợ mặc định là 18 GB; Những Database lớn hơn thì phải thay đổi cấu hình Registry. Enterprise Edition cho phép sử dụng database lên tới 16 TB, và hỗ trợ 4 nhóm lưu trữ với 5 databases cho mỗi nhóm có nghĩa là tới 20 databases cho một server.
Exchange Server 2003 đi kèm với bộ Microsoft Small Business Server 2003 Standard và Premium phiên bản 32-bit, và không cài đặt được trên Windows Server 2003 phiên bản 64 bit.
Clients
Microsoft Exchange Server sử dụng giao thức RPC, MAPI/RPC, và Outlook được thiết kế sử dụng những giao thức này để kết nối với Exchange Server. Những chương trình chạy tại Client có thể tận dụng hết những khả năng cao cấp của Exchange Server bao gồm Microsoft Outlook, Novell Evolution, và phiên bản mới nhất của Microsoft Entourage dùng cho máy Mac.
Bạn có thể truy cập E-mail lưu trữ trên Exchange Server với giao thức POP3 và IMAP4 bằng các trình duyệt e-mail khác như Outlook Express, Mozilla Thunderbird, và Lotus Notes. (Những giao thức này phải được kích hoạt trên server trước. Những phiên bản Exchange Server gần đây mặc định sẽ tắt các giao thức này)
Hộp thư trên Exchange Server cũng có thể truy cập bằng web browser, sử dụng Outlook Web Access (OWA). Exchange Server 2003 cũng cung cấp một phiên bản OWA cho thiết bị di động, gọi là Outlook Mobile Access (OMA).
Đi kèm với Windows Mobile từ phiên bản 5.0, Exchange Server 2003 SP2 hỗ trợ việc đẩy e-mail tới điện thoại di động—tương tự như cơ chế hoạt động của BlackBerry và iPhone.
Không giống như Exchange Server 2000, Exchange Server 2003 đã gỡ bỏ hẳn chức năng instant messaging. Microsoft đã phát hành Live Communication Server để cung cấp dịch vụ này như một ứng dụng độc lập. Exchange 2003 Anti-Spam được bổ sung thêm một số phương thức lọc spam căn bản. Mặc dù chúng chưa thể lọc spam hoàn toàn nhưng có thể hỗ trợ chống các loại tấn công dạng từ chối dịch vụ (DoS) và tấn công tràn bộ đệm của hộp thư. Trong phiên bản Exchange Server 2000 đã hỗ trợ khả năng chặn các địa chỉ người gửi hoặc chặn theo domain người gửi ‘*@domain.com’, tính năng này vẫn được duy trì trong Exchange Server 2003. Các phương thức lọc thư của Exchange Server 2003 được bổ sung như sau:
Lọc theo IP kết nối (Connection filtering)
Thư bị chặn theo danh sách DNS Blacklist hoặc có thể làm bằng tay cho một địa chỉ hay vùng địa chỉ IP nhất định
Lọc địa chỉ người nhận (Recipient filtering)
Thư bị chặn khi gửi tới những người nào đó cụ thể trong hoặc ngoài server (chống spammer đoán địa chỉ e-mail)
Lọc ID người gửi (Sender ID filtering)
Sender ID, một hình thức chống giả mạo thư điện tử của Sender Policy Framework (SPF)
Lọc thư thông minh (Intelligent Message Filter)
Đây là một tiện ích miễn phí của Microsoft có thể phát hiện hành vi của thư thông qua việc phân tích nội dung rồi ném chúng vào "Junk E-Mail" trong chương trình Microsoft Outlook.
Exchange Server 2007
Exchange Server 2007 được phát hành ngày 30/11/2006 cho các khách hàng doanh nghiệp và được xem như là một trong những làn sóng sản phẩm mới của Microsoft. Phiên bản này bao gồm các chức năng clustering mới, hỗ trợ 64-bit cho những công ty có nhu cầu mở rộng hoạt động, tích hợp voice mail, tìm kiếm nhanh hơn và hỗ trợ Web services, các chưc năng lọc thư tốt hơn, và một giao diện Outlook Web Access mới. Exchange 2007 cũng ngưng hỗ trợ việc nâng cấp từ Exchange 5.50 và các tính năng như routing groups, admin groups, Outlook Mobile Access, X.400, và một số hàm giao tiếp API cũ.
Exchange Server 2007 (v8 hay với SP1 v8.1) chỉ chạy trên nền Windows Server x-86 64-bit. Phiên bản thử nghiệm 32 bit vẫn cho phép download và sử dụng thử. Tuy nhiên, những công ty đang chạy Exchange Server trên nền tảng phần cứng 32-bit bắt buộc phải thay thế phần cứng khi muốn nâng cấp.
Phiên bản beta đầu tiên của Exchange Server 2007 (được đặt tên là "Exchange 12" hay E12) được phát hành vào tháng 12/2005 với số lượng người dùng thử rất hạn chế. Đợt beta thứ hai được phân phối rộng hơn thông qua TechNet Plus và MSDN vào tháng 03/2006. Vào ngày 25/04/2006, Microsoft mới chính thức công bố phiên bản mới Exchange Server 2007.
Exchange Server 2007 là một phần tích hợp của các sản phẩm trong nhóm Innovative Communications Alliance (đây là liên minh về thông tin truyền thông giữa Microsoft và Nortel, được xây dựng từ tháng 07/2006, để cùng nhau phát triển, tích hợp, tạo thị trường, bán hàng và hỗ trợ các sản phẩm về truyền thông hợp nhất. Cả 2 công ty đã làm việc trên cơ sở tích hợp phần cứng và phần mềm liên quan đến việc trao đổi voice, video, và data mà không cần gateways hay các phần mềm trung gian khác. Microsoft và Nortel sẽ cùng nhau chia sẻ bản quyền công nghệ về UC. Tháng 08/2007, Gartner đã nhận định Nortal và Microsoft đã đi đầu trong lãnh vực truyền thông hợp nhất)
Tính năng mới
Liệt kê những tính năng mới như sau:
- Bảo vệ: anti-spam, antivirus, tuân thủ quy định, khả năng clustering với data replication, nâng cao khả năng bảo mật và mã hóa thông tin
- Nâng cao khả năng truy cập thông tin cho người dùng văn phòng: cải tiến lịch làm việc, unified messaging, cải tiến truy cập mail qua thiết bị di động và thông qua web access
- Nâng cao kinh nghiệm quản trị: xử lý trên nền tảng 64-bit và cho phép mở rộng, hỗ trợ cấu hình cả bằng command-line shell và giao diện đồ họa, cải tiến việc phát triển ứng dụng, phân quyền và định tuyến đơn giản.
- Exchange Management Shell: đây là tập lệnh cho phép cấu hình hệ thống exchange qua dòng lệnh (command-line shell) và ngôn ngữ kịch bản (scripting language) dành cho những người quản trị hệ thống (dựa trên Windows PowerShell). Người dùng Shell có thể cấu hình thông qua giao diện chuẩn của Exchange Server nhưng đồng thời có thể làm thêm các tác vụ bổ sung bằng các dòng lệnh. Những tác vụ quan trọng sẽ được tạo thành kịch bản sẵn (scripts) và sau đó được lưu trữ, chia sẽ và tái sử dụng. Exchange Management Shell có trên 375 dòng lệnh giúp quản lý các tính năng của Microsoft Exchange Server 2007
- Tính năng "Unified Messaging" cho phép người dùng nhận voice mail, e-mail, và fax từ hộp thư của họ, và cho phép họ truy cập hộp thư từ điện thoại di động hay các thiết bị wireless. Bạn có thể dùng lệnh bằng lời nói để nghe thư điện tử thông qua điện thoại (và tất nhiên có thể gửi các tin nhắn ngắn, ví dụ "I’ll be late")
- Tăng cường khả năng lưu trữ CSDL tối đa lên đến 16TB cho một database.
- Tăng cường số lượng nhóm lưu trữ tối đa và mail database trên từng server: cho phép 5 nhóm lưu trữ trong phiên bản Standard Edition (Exchange Server 2003 Standard chỉ cho phép 1 nhóm), và tới 50 nhóm trong phiên bản Enterprise (Exchange Server 2003 Enterprise chỉ cho phép 4 nhóm và 20 databases).
Chính sách cấp phép
Giống như Windows Server, Exchange Server yêu cầu cấp phép dạng Client Access Licenses (CAL), Bạn có thể chọn user hoặc device CAL. Device CAL là hình thức cấp phép dựa trên thiết bị (máy để bàn, laptop hoặc PDA), user CAL được gán cho người sử dụng hoặc nhân viên (không phải cho hộp thư). User CAL cho phép người dùng truy cập thư từ bất kỳ thiết bị nào. User CAL và Device CAL có cùng một mức giá tuy nhiên không được dùng lẫn lộn nhau.
Đối với dịch vụ hosting Exchange Server, bạn có thể đăng ký sử dụng với giấy phép SPLA (Service Provider License Agreement) và Microsoft sẽ thu lệ phí hàng tháng monthly thay vì CAL.
Có 2 loại Exchange CAL: Exchange CAL Standard và Exchange CAL Enterprise. The Enterprise CAL là một hình thức giấy phép bổ sung cho Standard CAL.
Exchange hosting
Bạn cũng có thể mua dịch vụ hosting Microsoft Exchange Server thông qua một số nhà cung cấp dịch vụ.
Dong Nguyen – lược dịch từ wiki