Về thăm quê nội

Đã hơn 3 năm tôi không có dịp về thăm quê, đợt hè này nhân dịp có đợt họp hành dài ở Hà Nội nên tôi kết hợp đưa cả nhà ra Bắc. Vừa là dịp để cho bọn nhóc thăm cảnh Hà thành, vừa là dịp để anh chị em, cô dì chú bác có dịp gặp gỡ giao lưu với nhau.

Tôi sinh ra ở Hà Nội nhưng 5 tuổi đã vào miền Nam sinh sống mãi đến khi học hết lớp 12 và thi đại học xong thì mới được ra Bắc lần đầu. Đó là vào năm 1991, thời đó tôi đi cùng với thằng bạn Hoàng Sơn nhảy tàu hỏa đi suốt 3 ngày trời mới đến Hà Nội. Mới xuống ga thì đã bị ngay nhân viên kiểm soát chặn lại hỏi vé, tôi không mua vé nên bị phạt tiền rất nặng. Thật là một bài học nhớ đời.

Bố tôi đợt đó cũng ra Bắc công tác, ông mượn được một chiếc xe máy và chở tôi về thăm quê Hưng Yên, nơi mồ mả ông bà nội của tôi được chôn cất ở đó.

Năm đó ở vùng quê còn nghèo lắm, chẳng nhà nào có TV, 2 cha con tôi về làng bằng chiếc xe máy mà bọn trẻ con cứ chạy theo một hàng dài. Tôi cầm một gói kẹo to và cứ thế mà phát hết làng trên xóm dưới.

Tôi còn nhớ hôm đó còn dùng một cành cây làm gậy múa biểu diễn vài đường cho bọn trẻ em trong làng xem, bọn nó thích thú lắm.

Hồi đó tôi mới 17, bây giờ đã 36 rồi. Năm nay về quê, bố tôi cũng đã 73, các con tôi đứa 9, đứa 6 cũng tíu tít hăm hở về quê thăm mồ mả ông bà.

Ghé vào một điểm ven đường, chúng tôi lần mò vào khu mộ của ông cụ tổ Nguyễn Thế Ấn, bên cạnh là mộ của 2 cụ bà. Cụ tổ tôi năm xưa có đến 3 vợ, 2 người vợ thì chôn ngay bên cạnh cụ, còn một cụ bà thì lại chôn ở chỗ khác.

Trên bia mộ, tôi thấy các cụ đều được đặt nguyên quán là làng Thổ Quan, Khâm Thiên Hà Nội cả. Bây giờ là ngõ Thổ Quan nơi có cô tôi và các anh em vẫn đang sinh sống làm ăn rất phát đạt.

Không khí nóng bức oi ả đến dễ sợ, chỉ mới 15-20 phút mà mồ hôi đã đổ ra như tắm. Chúng tôi thắp hương rồi cắm trên tất cả các mộ xung quanh, khấn vái và cúng hoa quả, bánh kẹo cho các cụ.

Bọn trẻ con có dịp được hit thở không khí đồng quê, ruộng lúa cũng đang trong giai đoạn cấy mạ, mấy con bò đang gặm cỏ giữa cái nắng hè đổ lửa. Quần áo, đầu tóc tôi ướt đẩm mồ hôi ấy vậy mà nhìn xa xa vẫn thấy những thân hình nhỏ bé hì hục giữa đám ruộng. Thật là cuộc sống người nông vất vả.

Tôi tranh thủ chụp vài tấm ảnh bia mộ của cụ Luyến là mẹ ruột của ông nội tôi rồi chạy theo đoàn người len lỏi ra khỏi khu mộ chật ních.

Những mộ phần chen cứng nhau đến không còn lối đi, mỗi người lại theo một hướng, ngổn ngang, tôi phải leo qua các mộ mà đi ra con đường đất. Ở đây vào ban đêm chắc là hoang vắng, tối tăm lắm đây.

Chỉ là những động tác thắp hương, vái lạy nhưng nó lại mang những ý nghĩa về tâm linh to lớn. Nó là sự hướng về nguồn cội về những người đã khuất, biết được mình có gia phả, có tổ tông như vậy là rất hạnh phúc. Các cụ ở dưới 9 suối, thấy con cháu đời thứ 3, thứ 4 ở xa đến cúng lạy, thăm viếng chắc cũng vui vẻ lắm, thế nào cũng có nhiều chuyện bàn tán rôm rả dưới đó. Lại có bánh trái hương hoa thì càng thêm phần rôm rả.

Xe chúng tôi tiếp tục đi lên con đường đê ngoằn ngoèo và tìm bến đò Ninh Tập để qua sông, bên kia đã là Hưng Yên rồi. Đường đê gồ ghề có chỗ đã trải nhựa có chỗ không, có đoạn hẹp đoạn rộng, buổi tối mà đi chắc nguy hiểm vì chẳng có đèn đuốc gì, chẳng có cột mốc an toàn gì cả. 2 bên đê người ta xây nhà cũng san sát. Rẽ vào bến đò cả đoàn chúng tôi xuống xe, sau khi hỏi thăm đường, chúng tôi xà vào một quán cóc đúng theo kiểu quê hương miền Bắc, một cụ bà khoảng trên 60 nhưng vẫn lanh lợi và khỏe mạnh lắm đứng quán. Trong quá có đủ thứ bánh kẹo, trái cây, nước ngọt. Nhưng tôi thích nhất là uống trà Bắc, hơi đắng hơi chát nhưng đã khát, ăn ít lạc (đậu phộng) luộc vừa bùi vừa ngọt thật là thích, bọn trẻ con thì chỉ thích uống nước ngọt và những món của thành phố. Tôi mở thử cái bánh gai mà bọn nó không dám ăn, thật là thế hệ sau có khác rồi, mai này những món quê này chắc dân thành phố cũng chẳng còn ai chuộng nữa. Có món trứng gà ta luộc chấm muối tiêu là khoái khẩu, tuy nhiên bà cụ chỉ có 4-5 trứng, muốn kêu thêm nhưng cũng không còn, ăn uống tưng bừng mà tính tiền chưa tới 40,000 đồng thật là rẻ quá.

Phà lớn đã đến, chúng tôi rời quán cóc và lũ lượt bước xuống phà. Tôi tranh thủ chạy đến mép nước thò tay xuống rửa cho sạch sẽ, nước sông Hồng đúng là đục màu phù sa nhưng lại rất sạch sẽ, tôi thực sự rất thích thú.

Con đò trưa vắng khách chỉ có đoàn chúng tôi và vài người dân địa phương, chiếc xem ford 16 chỗ như lọt thỏm trong lòng phà 

Thằng cu Vinh có vẻ hưng phấn lắm, nó được theo ông theo ba về quê cha đất tổ thì sướng quá rồi còn gì.

Đây là kỷ niệm đáng nhở và sau này sẽ in sâu vào trí nhở của nó về một miền quê nơi có mồ mả của ông bà và cũng là gốc rễ của nó.

Nơi có con đò, bến nước, quán cóc ven sông, có hàng tre, bãi mía, luống cày, những nhà máy gạch ven sông thanh bình.

Phà cập bến và xe lại tiếp tục lăn bánh, con đường quê đất đỏ nhỏ hẹp, cách tốt nhất là hỏi đường chứ đừng mong mà mà nhớ được đường đi vì ở đâu cũng giống hệt nhau, cũng nhà gạch, đường quê, bụi tre làng..

.

Về đến nhà chú Đích, bọn trẻ rất thích thú khi nhìn thấy đàn gà con nhỏ xinh lông vàng, kêu chíp chíp trong sân.

Thật là buồn cười khi bọn trẻ thậm chí chỉ dám mon men lại gần đàn gà, vừa thích vừa sợ, không đứa nào dám cầm con gà lên vuốt ve

Mãi gần cả tiếng sau, thằng anh mới dùng cái rổ bẫy được hai em gà để cho nhỏ em gái ngồi gần hơn xem

Rồi cuối cùng cu cậu cũng đã dám đặt chú gà con trong lòng bàn tay và đương nhiên là rất thích chí.

Nghỉ ngơi được một lát, chúng tôi lại rảo bước trên con đường làng về thăm những mộ phần của các cụ bên nội. đầu tiên là cụ Nhất bố đẻ của bà nội tôi.

Ngôi mộ nằm sau vườn của một ngôi nhà. Để vào được, chúng tôi phải bước qua một vườn trồng khoai lang và sắn. Ngôi mộ nằm ở cuối vườn, xung quanh cây cối xum xuê mát mẻ.

Ngôi nhà này chỉ có 2 bé gái trông, ba mất sớm, mẹ lên Hà Nội làm ăn, anh trai thì vào Sài Gòn. 2 chị em ở nhà tự trồng lúa, trồng ngô, tự thu hoạch và bán mà kiếm tiền sinh sống ăn học rất ngoan. Một bé gái học lớp 11 một bé còn lại học lớp 9 rất ngoan. Đúng là dân quê hiền lành chất phác lắm.

Ở quê đất rộng, làm nông nghiệp nhưng thu hoạch lại chẳng được bao nhiêu, Cả tạ ngô nhiều lúc cũng chỉ được vài trăm nghìn mà mất cả mấy tháng trời chăm sóc, cầy cuốc, thu hoạch. Những người có khả năng đều đổ xô ra Hà Nội làm ăn hết.

Như mảnh đất vườn đối diện nhà chú Đích rộng đến mấy trăm mét vuông, thế mà người ta chỉ bán có 30 triệu, trong vườn cây cối xum xuê, có vài ngôi mộ cổ. Ấy thế mà chạy vạy vay mượn mãi cũng chẳng ai có tiền mà mua. Người ở Hà Nội hay Sài Gòn có tiền nhưng bảo bỏ ra mua rồi cũng chẳng biết để làm gì, thật là khó nghĩ.

Hưng Yên là quê của bà nội của tôi, nhưng khi ông nội tôi mất thì lại đem về đây chôn. Sau đó bà nội cũng được đem về đây chôn cạnh ông.

 

Mồ mả ở quê không phải ngay hàng thẳng lối như ở các nghĩa trang đã có quy hoạch. người đến trước thì xí phần trước, rồi tự coi hướng thuận lợi cho gia đình mà đặt mộ, những người sau cứ thế mà chen chúc nhau.

Ngày xưa khi tôi về, mộ phần của ông bà nội rất đơn sơ, sau này bố tôi và các cô chú làm ăn khấm khá nên đã quyết định nhờ người làng xây dựng lại mộ cho thật đẹp đẽ và khang trang. Bây giờ, mộ ông nội và bà nội trông rất đẹp, Ngôi mộ cũng giống như căn nhà, mộ đẹp thì ông bà ăn ở cũng thoải mái hơn, con cháu ở xa đến thăm thấy ông bà của mình có nhà đẹp cũng vui vẻ tự hào với hàng xóm láng giềng. Mỗi lần về chúng tôi lại cúng ít trái cây, bánh kẹo trước là cho người đã khuất, sau là cho đám trẻ con ở quê được hưởng chút hương hoa cả làng vui vẻ.

Trả lời